Bang Dai Hoc
Thứ Ba, 6 tháng 8, 2019
Thứ Năm, 1 tháng 8, 2019
Làm được những điều này thì hãy nghĩ đến không phân biệt chính quy, tại chức
(GDVN) - Hiện nay, hai loại hình đào tạo chính quy và tại chức vẫn có khoảng cách lớn do cách thức tuyển sinh, quản lý đào tạo, quan niệm của xã hội...
Tại Điều 6 trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tổ chức lấy ý kiến cho thấy, cách gọi hình thức đào tạo chính quy và tại chức (hệ vừa học vừa làm, giáo dục thường xuyên) được chuyển thành hệ tập trung và không tập trung.
Theo đó, hai loại hình này chỉ khác nhau phương thức đào tạo, còn chuẩn về chương trình, giáo viên, chuẩn đầu ra và văn bằng tốt nghiệp sẽ giống nhau.
Theo đó, hai loại hình này chỉ khác nhau phương thức đào tạo, còn chuẩn về chương trình, giáo viên, chuẩn đầu ra và văn bằng tốt nghiệp sẽ giống nhau.
Góp ý về vấn đề này, Phó giáo sư Trần Văn Tớp - Phó hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội, cho rằng không phân biệt bằng đại học chính quy và tại chức khó khả thi.
Hình minh họa, nguồn: VTV.vn. |
Ông Tớp nhận định, xã hội Việt Nam là xã hội “sính” bằng cấp nên người ta coi trọng bằng cấp, trong khi tuyển dụng vị trí làm việc phải xuất phát từ nhu cầu và năng lực ứng viên phù hợp với vị trí công việc.
Cơ quan/đơn vị tuyển dụng phải có phương pháp và cách thức tuyển dụng chọn đúng người phù hợp với yêu cầu, trong đó bằng cấp có thể chỉ là 1 điều kiện.
Hiện nay nhiều cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài và kể cả doanh nghiệp trong nước họ đều chú trọng về năng lực, kỹ năng và kiến thức chuyên môn của ứng viên.
Cơ quan/đơn vị tuyển dụng phải có phương pháp và cách thức tuyển dụng chọn đúng người phù hợp với yêu cầu, trong đó bằng cấp có thể chỉ là 1 điều kiện.
Hiện nay nhiều cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài và kể cả doanh nghiệp trong nước họ đều chú trọng về năng lực, kỹ năng và kiến thức chuyên môn của ứng viên.
Bộ Giáo dục muốn xóa bỏ hệ đào tạo hệ tại chức? |
Đối với nhiều nước vẫn tồn tại hình thức đào tạo full time (chính quy – tập trung) và part time (không tập trung – vừa học vừa làm) và họ không phân biệt bằng cấp giữa 2 hình thức đào tạo này.
Nếu đảm bảo chất lượng đào tạo hệ tập trung và hệ không tập trung và xoá bỏ khoảng cách về bằng cấp giữa hình thức đào tạo tập trung (Full time, mà trước đây ta gọi là chính quy) với loại không tập trung (part time, mà trước đây ta gọi là tại chức hoặc vừa học vừa làm hoặc đào tạo liên tục) là đúng, phù hợp với xu thế và triết lý đào tạo: học suốt đời.
“Luật cần xây dựng hiện đại, phù hợp với xu thế chung, do vậy tôi ủng hộ với đề xuất này trong dự thảo. Tuy nhiên trong hoàn cảnh, bối cảnh hiện nay của chúng ta hiện tại là khó, thậm chí rất khó”, Phó Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội nhận định.
Theo Phó giáo sư Trần Văn Tớp, không phân biệt bằng chính quy và tại chức chỉ thực hiện được khi mọi quy trình đào tạo phải giống nhau và có chất lượng như nhau từ tuyển sinh đầu vào đến quản lý đào tạo, chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra, cách thức thi cử, đánh giá.
Tuy nhiên trên thực tế, hai loại hình đào tạo này hiện vẫn có khoảng cách lớn do cách thức tuyển sinh, quản lý đào tạo, quan niệm của xã hội và người sử dụng lao động do thời gian tập trung cho việc học tập, do quan niệm của cả người học (sinh viên) và các cơ sở đào tạo (giảng viên và cán bộ quản lý).
Cụ thể, theo ông Tớp, người học hệ không tập trung rất khó có đủ thời gian để đảm bảo học và tự học. Thời gian tập trung chỉ khoảng 5-6 tháng so với hệ chính quy là 10 tháng/1 năm.
Sinh viên hệ không tập trung phải cần thời gian dài hơn khoảng 1,6 lần hoặc thời gian tự học phải gấp đôi so với hệ tập trung.
Nếu đảm bảo chất lượng đào tạo hệ tập trung và hệ không tập trung và xoá bỏ khoảng cách về bằng cấp giữa hình thức đào tạo tập trung (Full time, mà trước đây ta gọi là chính quy) với loại không tập trung (part time, mà trước đây ta gọi là tại chức hoặc vừa học vừa làm hoặc đào tạo liên tục) là đúng, phù hợp với xu thế và triết lý đào tạo: học suốt đời.
“Luật cần xây dựng hiện đại, phù hợp với xu thế chung, do vậy tôi ủng hộ với đề xuất này trong dự thảo. Tuy nhiên trong hoàn cảnh, bối cảnh hiện nay của chúng ta hiện tại là khó, thậm chí rất khó”, Phó Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội nhận định.
Theo Phó giáo sư Trần Văn Tớp, không phân biệt bằng chính quy và tại chức chỉ thực hiện được khi mọi quy trình đào tạo phải giống nhau và có chất lượng như nhau từ tuyển sinh đầu vào đến quản lý đào tạo, chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra, cách thức thi cử, đánh giá.
Tuy nhiên trên thực tế, hai loại hình đào tạo này hiện vẫn có khoảng cách lớn do cách thức tuyển sinh, quản lý đào tạo, quan niệm của xã hội và người sử dụng lao động do thời gian tập trung cho việc học tập, do quan niệm của cả người học (sinh viên) và các cơ sở đào tạo (giảng viên và cán bộ quản lý).
Cụ thể, theo ông Tớp, người học hệ không tập trung rất khó có đủ thời gian để đảm bảo học và tự học. Thời gian tập trung chỉ khoảng 5-6 tháng so với hệ chính quy là 10 tháng/1 năm.
Sinh viên hệ không tập trung phải cần thời gian dài hơn khoảng 1,6 lần hoặc thời gian tự học phải gấp đôi so với hệ tập trung.
Bộ Giáo dục vẫn chưa phân rõ trắng-đen giữa bằng chính quy và tại chức? |
"Dù vậy, đây vẫn là quy định đúng, phù hợp xu thế chung của thế giới và nên được đưa vào luật để áp dụng cho tương lai", Phó giáo sư Trần Văn Tớp nói.
Theo đề xuất của hiệu phó Đại học Bách khoa Hà Nội, nếu các trường muốn đảm bảo chất lượng đào tạo 2 hệ này, đảm bảo chuẩn và chất lượng đầu ra của hệ tại chức được như của chính quy, thì cần:
Một là, cần tuyển sinh chặt chẽ như tuyển sinh đại học tập trung và đạt điểm ngưỡng đảm bảo chất lượng.
Mặc dù hiện nay, quy chế tuyển sinh đã có rất nhiều tự chủ của cả các trường, có thể xét tuyển theo hồ sơ. Tuy nhiên nhiều trường vẫn áp dụng thi tuyển hoặc dựa vào kết quả thi trung học phổ thông quốc gia.
Một là, cần tuyển sinh chặt chẽ như tuyển sinh đại học tập trung và đạt điểm ngưỡng đảm bảo chất lượng.
Mặc dù hiện nay, quy chế tuyển sinh đã có rất nhiều tự chủ của cả các trường, có thể xét tuyển theo hồ sơ. Tuy nhiên nhiều trường vẫn áp dụng thi tuyển hoặc dựa vào kết quả thi trung học phổ thông quốc gia.
Ngay cả khi xét tuyển theo hồ sơ, họ cũng nhằm vào đối tượng có học lực khá, giỏi. Như vậy, nếu tuyển sinh chặt chẽ như đại học chính quy, thì khó, thậm chí không thể tuyển sinh được;
Hai là, ngay cả khi xét tuyển được, thì khả năng tốt nghiệp cũng thấp do áp dụng thi cử, đánh giá như của hệ tập trung. Do vậy, các trường thấy cần siết chặt quá trình đào tạo để chất lượng hệ không chính quy không ảnh hưởng tới uy tín và chất lượng hệ chính quy của trường.
Riêng đối với hệ đào tạo tiến sĩ, ông Tớp cho rằng, chỉ nên quy định 1 hình thức đào tạo tập trung, không nên có hình thức đào tạo không tập trung. Nếu 1 người đi làm hoặc được cử đi làm nghiên cứu sinh thì nên toàn tâm, toàn ý thì mới có thể đảm bảo chất lượng đào tạo như yêu cầu.
Trước đó, trao đổi với báo chí, bà Nguyễn Thị Kim Phụng - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) lý giải dự kiến không còn hai loại văn bằng với tên gọi riêng biệt là bằng chính quy, bằng vừa học vừa làm là phù hợp thông lệ chung trên thế giới.
Dự thảo quy định này cũng hướng đến việc yêu cầu các trường đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn để người học được xã hội đánh giá bình đẳng như nhau khi theo học đại học với các hình thức đào tạo khác nhau. Tất cả văn bằng cấp ra của các cơ sở phải đạt chuẩn chất lượng.
Hai là, ngay cả khi xét tuyển được, thì khả năng tốt nghiệp cũng thấp do áp dụng thi cử, đánh giá như của hệ tập trung. Do vậy, các trường thấy cần siết chặt quá trình đào tạo để chất lượng hệ không chính quy không ảnh hưởng tới uy tín và chất lượng hệ chính quy của trường.
Riêng đối với hệ đào tạo tiến sĩ, ông Tớp cho rằng, chỉ nên quy định 1 hình thức đào tạo tập trung, không nên có hình thức đào tạo không tập trung. Nếu 1 người đi làm hoặc được cử đi làm nghiên cứu sinh thì nên toàn tâm, toàn ý thì mới có thể đảm bảo chất lượng đào tạo như yêu cầu.
Trước đó, trao đổi với báo chí, bà Nguyễn Thị Kim Phụng - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) lý giải dự kiến không còn hai loại văn bằng với tên gọi riêng biệt là bằng chính quy, bằng vừa học vừa làm là phù hợp thông lệ chung trên thế giới.
Dự thảo quy định này cũng hướng đến việc yêu cầu các trường đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn để người học được xã hội đánh giá bình đẳng như nhau khi theo học đại học với các hình thức đào tạo khác nhau. Tất cả văn bằng cấp ra của các cơ sở phải đạt chuẩn chất lượng.
Chính sách ưu đãi: phải bình đẳng giữa trường công và tư
TTO - Nếu đã đặt ra các chính sách ưu đãi cho giáo viên, học sinh thì tại sao chỉ áp dụng với giáo viên, học sinh trường công mà bỏ qua trường tư thục?
Luật giáo dục cần phải làm rõ tính chất, hay bản chất của nền giáo dục VN trong tương lai. Điều này rất quan trọng, vì bao năm nay chúng ta không thoát ra được một nền giáo dục ứng thí, làm chúng ta lao đao
PGS Trần Kiều (nguyên viện trưởng Viện Khoa học giáo dục VN)
Hội nghị tham vấn chuyên gia về sửa đổi, bổ sung Luật giáo dục và Luật giáo dục ĐH do Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội tổ chức ngày 15-12.
Trước hội nghị này, khá nhiều ý kiến ở các hội nghị góp ý cho Luật giáo dục sửa đổi cũng đã đưa ra vấn đề "Nếu đã đặt ra các chính sách ưu đãi cho giáo viên, học sinh phổ thông thì tại sao chỉ áp dụng với giáo viên, học sinh trường công mà bỏ qua trường tư thục?".
Một số ý kiến đề nghị "cần phải miễn học phí cho học sinh trường tư thục".
"Công" và "tư" phải cùng hưởng chính sách
Câu chuyện trên cũng được đặt lại ở hội nghị tham vấn chuyên gia. TS Nguyễn Hải Hữu, phó chủ tịch Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và nghề công tác xã hội VN, cho rằng: "Cơ chế để đảm bảo công bằng giữa khu vực ngoài công lập với công lập phải rất rõ. Nếu không, người đi học ngoài công lập sẽ không được hưởng bất cứ chính sách gì của Nhà nước".
Theo TS Nguyễn Sĩ Dũng - nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, hướng đi đúng là chia đều ngân sách trên tổng số học sinh, cho cả những trường tư cung cấp dịch vụ công như trường công lập và Nhà nước sẽ can thiệp về mức học phí.
Còn với những trường tư cung cấp dịch vụ giáo dục cao thì Nhà nước không cần phải đầu tư, học phí là thỏa thuận giữa nhà trường và phụ huynh.
"Việc chi bao nhiêu phần trăm ngân sách cho giáo dục thì nhiều nước đã đưa vào luật. Ở nước ta, ngân sách chi cho giáo dục hiện nay khoảng 20%. Tỉ lệ này đã được xác định thì có thể khẳng định được không?" - ông Nguyễn Sĩ Dũng đề xuất.
Bà Phạm Thị Hồng Nga, nguyên phó giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội, đề nghị nếu ngân sách không thể miễn học phí cho tất cả học sinh phổ thông thì nên miễn học phí cho đối tượng cần phổ cập - bao gồm học sinh tiểu học, THCS và mầm non 5 tuổi.
"Đối tượng học sinh là con công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất có thu nhập thấp, không có điều kiện gửi con vào trường công, mà phải gửi con ở nhóm lớp tư thục nhỏ, lẻ. Đối tượng này cũng cần được xem xét hỗ trợ" - bà Nga nói.
Nên bỏ miễn học phí cho sinh viên sư phạm
GS Đào Trọng Thi - nguyên chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội - cho rằng ông rất ngạc nhiên khi cả Luật giáo dục và Luật giáo dục ĐH đều không có quyết sách về việc dừng thực hiện chính sách miễn học phí dành cho sinh viên sư phạm.
Đồng tình với quan điểm này, PGS.TS Nguyễn Trường Giang - Bộ Tài chính - đề xuất nên sửa đổi chính sách miễn học phí cho sinh viên sư phạm theo hướng: sinh viên sư phạm sẽ được vay tín dụng nhà nước để trang trải học phí.
Sau khi học, nếu công tác trong lĩnh vực sư phạm, đáp ứng đủ điều kiện thời gian theo quy định sẽ được miễn trả phần vay. Trường hợp không công tác trong ngành sư phạm sẽ phải hoàn trả tiền vay.
Không phân biệt bằng: tin thất thiệt?
Tại hội nghị, nhiều chuyên gia tỏ ra băn khoăn trước thông tin trong dự thảo luật sửa đổi, bổ sung Luật giáo dục ĐH, Bộ GD-ĐT sẽ không còn phân biệt bằng ĐH tập trung (trước đây vẫn gọi là chính quy) hay không tập trung (trước đây hay gọi là hệ tại chức, vừa học vừa làm) trên văn bằng.
Đáp lại băn khoăn này, ông Nguyễn Văn Phúc, thứ trưởng Bộ GD-ĐT, khẳng định dự thảo luật không hề đề cập đến việc trên bằng cấp có ghi hay không còn ghi hình thức đào tạo (tập trung hay không tập trung). Dự thảo điều 38 quy định "Bộ trưởng Bộ GD-ĐT quy định thống nhất các nội dung chính ghi trên văn bằng và phụ lục kèm theo...".
Như vậy, theo ông Phúc, ghi hay không ghi hình thức đào tạo trên văn bằng sẽ do bộ trưởng Bộ GD-ĐT cân nhắc, quyết định trên cơ sở các góp ý. Tất nhiên đa số các nước không ghi nhưng với VN, "do có yếu tố lịch sử khiến nhiều người còn nghi ngại về chất lượng..." - ông Phúc nói.
Nguyên tắc biên soạn sách giáo khoa
Tại hội nghị, GS Trần Kiều cho rằng khi đặt ra việc các tổ chức, cá nhân được phép biên soạn sách giáo khoa (SGK), nhiều người cho rằng không khả thi khi biên soạn cả một bộ SGK với khoảng 200 cuốn - khối lượng rất lớn, việc huy động kinh phí cũng là vấn đề khó khăn, nếu không được thẩm định thì bộ sách sẽ không dùng được.
Vì thế, cần phải làm rõ các tổ chức, cá nhân có nhất thiết phải biên soạn cả bộ SGK từ lớp 1 đến 12 hay có thể biên soạn một cấp, một lớp, một môn, thậm chí biên soạn một cuốn sách? TS Nguyễn Hải Hữu cho rằng cần cân nhắc tính vùng miền khi quy định về chương trình SGK, để phù hợp học sinh ở mỗi vùng đặc thù.
Về điều này, GS Trần Quốc Toản - nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ - cho rằng luật chỉ đưa vào các nội dung mang tính nguyên tắc, được làm rõ. Còn với những nội dung cụ thể thì nên đưa vào văn bản dưới luật để có cơ hội thay đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Bộ Giáo dục vẫn chưa phân rõ trắng-đen giữa bằng chính quy và tại chức?
(GDVN) - Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phải công khai quan điểm, chủ trương và những giải pháp cần thiết của mình trong nỗ lực bảo đảm giá trị thực chất của các loại bằng.
LTS: Xung quanh tranh luận về những sửa đổi trong quy định về bằng đại học chính quy, đại học tại chức trong dự thảo Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, thầy giáo Đạt Nguyễn từ Đồng Nai gửi tới Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết chia sẻ góc nhìn của mình.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc bài viết này!
Ngày 15/12/2017 Uỷ ban Văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội tổ chức Hội nghị tham vấn chuyên gia về sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục và Luật Giáo dục Đại học. Báo Tuổi Trẻ tường thuật:
Không phân biệt bằng: tin thất thiệt?
Tại hội nghị, nhiều chuyên gia tỏ ra băn khoăn trước thông tin trong dự thảo luật sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ không còn phân biệt bằng đại học tập trung (trước đây vẫn gọi là chính quy) hay không tập trung (trước đây hay gọi là hệ tại chức, vừa học vừa làm) trên văn bằng.
Đáp lại băn khoăn này, ông Nguyễn Văn Phúc, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định:
Đáp lại băn khoăn này, ông Nguyễn Văn Phúc, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định:
Dự thảo luật không hề đề cập đến việc trên bằng cấp có ghi hay không còn ghi hình thức đào tạo (tập trung hay không tập trung). Dự thảo điều 38 quy định "Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định thống nhất các nội dung chính ghi trên văn bằng và phụ lục kèm theo...".
Hình minh họa, nguồn: VTV.vn. |
Như vậy, theo ông Phúc, ghi hay không ghi hình thức đào tạo trên văn bằng sẽ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cân nhắc, quyết định trên cơ sở các góp ý.
Tất nhiên đa số các nước không ghi, nhưng với Việt Nam, "do có yếu tố lịch sử khiến nhiều người còn nghi ngại về chất lượng..." - ông Phúc nói. [1]
Có thể "tóm lại" phát biểu của Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc với hai ý chính như sau:
(1) Khẳng định dự thảo Luật Giáo dục Đại học không hề đề cập đến việc trên bằng cấp có ghi hay không còn ghi hình thức đào tạo (tập trung hay không tập trung).
Dự thảo điều 38 quy định: “Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định thống nhất các nội dung chính ghi trên văn bằng và các phụ lục kèm theo…”.
Như vậy, việc ghi hay không ghi hình thức đào tạo trên văn bằng sẽ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định trên cơ sở các góp ý.
(2) Đa số các nước đều không ghi rõ hệ đào tạo trên văn bằng, nhưng với Việt Nam, do có yếu tố lịch sử khiến nhiều người còn nghi ngại về chất lượng…
Trước những băn khoăn và tranh luận khá gay gắt trên các phương tiện truyền thông hiện nay về giá trị của tấm bằng đại học và chất lượng của các loại hình đào tạo đại học, cách giải đáp này đã tỏ ra không mấy thuyết phục.
Ngoài việc phân trần với dư luận rằng dự thảo Luật Giáo dục Đại học không quy định cụ thể nội dung ghi trên văn bằng và Bộ trưởng đang còn chờ những góp ý, ông Thứ trưởng đã tỏ ra khá kín kẽ khi không bày tỏ một chính kiến rõ ràng nào về việc này.
Theo thông lệ hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính là cơ quan chủ trì biên soạn và đệ trình dự thảo luật Giáo dục Đại học;
Và dĩ nhiên, cũng chính Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tham mưu Chính phủ và/hoặc tự mình ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn chi tiết việc tổ chức thực hiện luật sau khi dự luật này được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước công bố hiệu lực thi hành.
Do đó, tuy dự thảo điều 38 không quy định chi tiết về những nội dung chính cần ghi trên văn bằng, nhưng chắc chắn, những nội dung chi tiết này cũng sẽ do chính Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo và ban hành.
Vì vậy thiết nghĩ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phải công khai quan điểm, chủ trương và những giải pháp cần thiết của mình trong nỗ lực bảo đảm giá trị thực chất của các loại bằng cấp nói chung và bằng đại học nói riêng.
Và cụ thể nhất là, Bộ cần nêu rõ chủ ý và những lý giải của mình liên quan đến việc duy trì hay không tiếp tục ghi nhận sự phân biệt các loại hình đào tạo trong văn bằng đại học.
Có vậy, các chuyên gia và công luận mới có thể tham gia đóng góp những ý kiến cụ thể để bổ sung hay phản biện đạt hiệu quả thiết thực.
Trên cơ sở ấy, Bộ trưởng cùng ban tham mưu của mình thận trọng tiếp thu, điều chỉnh hay giải trình, giải thích thêm.
Việc công khai những thông tin này, khi ấy, không chỉ có tác dụng làm minh bạch chủ trương và quyết tâm của Bộ mà còn hướng dẫn công luận tham gia giám sát quá trình tổ chức thực hiện.
Điều này sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với quyết định về nội dung ghi trên văn bằng cùng với các giải pháp liên quan nhằm đảm bảo chất lượng của bằng cấp.
Nếu không, nhân dân sẽ lại phải tiếp tục nghe mãi cách giải thích cho những yếu kém, tồn tại trong xã hội hiện nay bằng các từ ngữ đầy huyễn hoặc như “yếu tố lịch sử” nêu trên.
Đã đến lúc chấm dứt việc đổ tội cho lịch sử; bởi lẽ, không ai khác mà là chính chúng ta đã và đang viết tiếp những trang lịch sử của dân tộc mình.
Xin đừng để thế hệ mai sau nhìn thấy nền giáo dục hôm nay cũng đầy dẫy cảnh “mua bằng, bán cấp”, “vàng thau lẫn lộn” như trong xã hội thời kì mạt vận của một số triều đại phong kiến trước đây.
Bằng cấp và…
Bằng cấp và… bằng lòng!
(GDVN) - Bằng cấp – chuyện xưa như quả đất nay lại được "khai quật" trở lại sánh vai cùng vô vàn những câu chuyện còn bỏ ngỏ trong giáo dục đại học.
TIN LIÊN QUAN
- Bộ Giáo dục giải thích như thế nào về văn bằng hệ tập trung và không tập trung?
- Cô Phan Tuyết kể bốn câu chuyện để xóa hệ tại chức
- Bộ Giáo dục muốn xóa bỏ hệ đào tạo hệ tại chức?
Bằng cấp – chuyện xưa như quả đất nay lại được "khai quật" trở lại sánh vai cùng vô vàn những câu chuyện còn bỏ ngỏ trong giáo dục đại học.
Khởi phát cho chuỗi tranh luận là từ một vấn đề trong dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi, có thể tóm gọn: từ nay sẽ không phân biệt bằng đại học chính quy hay tại chức.
Lẽ đương nhiên, những người hiên ngang bước vào cổng trường đại học bằng chất xám khi mới tốt nghiệp phổ thông có lý do để lên tiếng về sự bất công vô hình nào đó lởn vởn quanh tấm bằng.
Xin ghi lại câu nói cửa miệng: "dốt chuyên tu, ngu tại chức".
Nội hàm câu nói này vừa đúng lại vừa sai, sai vì không phải ai "tại chức" cũng thiếu kiến thức, kỹ năng; đúng vì sự thật nhiều chủ nhân tấm bằng "tại chức" còn… tệ hơn "vợ thằng Đậu"!
Đây là hạn chế khách quan mà những người đang sở hữu tấm bằng tại chức không nên lấy làm bực dọc.
Thứ nhất: Nếu đủ thực lực sao không vào đại học bằng 18, 20 điểm?
Thứ hai: Nếu vì một lý do nào đó mà không thể tham gia thi thố, không được đào tạo đầy đủ trước khi vào đại học coi như kiến thức đã mang một lỗ hổng cực lớn!
Ảnh minh họa / VTV.vn |
Là kiến thức, là học thuật, là "cử nhân", ở đây không có chuyện "thông cảm" hay nhân đạo nào cả.
Với khoa học chỉ có "YES" or "NO", nên không thể lấy điều kiện hoàn cảnh ra và cho rằng vì "nọ", vì "kia".
Cũng do vì "nọ" vì "kia" nên không thể thế này thế khác…!
Hãy tưởng tượng nếu không có "thuyết tương đối rộng", "thuyết tương đối hẹp" thì cái tên Einstein cũng giống như hàng vạn Mary, Daisy, Tom, Jerry… khác mà thôi.
Một ông Amater nào đó - hàng xóm nhà Einstein không thể gân cổ cho rằng, mấy cái thuyết đó là nhờ tôi chỉ ra nhưng do bận tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất nên không nghiên cứu đến cùng!?
Ở đây về mặt khoa học phải thừa nhận với nhau rằng, "chính quy" và "tại chức" là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Là khái niệm đương nhiên có "nội hàm" và "ngoại diên", có logic hẳn hoi chứ không phải nói cho sang miệng.
Nếu không phân biệt rạch ròi giữa chúng tức là đánh tráo khái niệm.
Có thể hiểu ngược lại, nếu muốn đánh đồng "chính quy" và "tại chức" là phải dẹp luôn một trong hai hình thức này hoặc nghĩ ra một hình thức khác thay thế chứ không có chuyện trong "tại chức" có "chính quy" và trong "chính quy" có "tại chức".
Một chiếc áo không thể mặc cho hai người một lúc. Đó không phải là cải cách mà thụt lùi, làm rối rắm vấn đề.
Đến cả người phụ trách lĩnh vực giáo dục của Chính phủ, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam cũng thẳng thừng "cử nhân phải ra cử nhân, tiến sĩ phải ra tiến sĩ"[1].
Hà cớ gì lại làm nhập nhằng nhấp nhem giữa các hình thức học tập, đào tạo?
Ở giác độ thực tiễn, có nhiều nan đề cần giải quyết. Muốn "chính quy" và "tại chức" được công nhận ngang nhau thì ít ra phải tạo ra những điều kiện học tập tương đương nhau.
Có hai hướng để giải quyết.
Một là nâng cấp những điều kiện thi cử, học tập, sát hạch của hệ "tại chức" sao cho bằng với "chính quy", đây là cách làm đúng logic.
Hai là hạ điều kiện thi cử, học tập, sát hạch của hệ "chính quy" cho ngang với…"tại chức". Như thế mới gọi là công bằng.
Không ai muốn làm cách thứ hai, nhưng đã là ngang nhau tấm bằng thì phải ngang nhau về tất cả mọi điều kiện!
Việc "san bằng" hai loại hình đào tạo không chỉ nằm ở cách gọi, vì cách gọi suy cho cùng chỉ là quy ước để phân biệt.
Ví dụ, một ngày nào đó người ta gọi bậc tiểu học là "đại học" còn gọi bậc đại học là "tiểu học"; đổi cử nhân thành tiến sĩ và tiến sĩ thành thạc sĩ.
Không sao cả, đó là việc làm y chang như đổi số trên tờ tiền mệnh giá 500 nghìn đồng thành 5 nghìn đồng và ngược lại.
Nếu muốn người ta cũng có thể đổi tên gọi "cử nhân tại chức" thành "tiến sĩ tại chức".
Vấn đề ở đây là làm sao để thực tiễn xảy ra đúng với logic vận động của khái niệm, tức là tiến sĩ ra tiến sĩ, cử nhân ra cử nhân.
Đó mới là bản chất của cái cần thay đổi.
Còn chỉ thay đổi danh xưng mà không thay đổi "nội hàm" của danh xưng là việc làm vô ích, không có ý nghĩa.
Xa hơn là bài toán làm sao lý luận đi kèm với thực tiễn, chứ không phải nổi hứng lên là nói cho sướng miệng xong ngày mai hết hứng lại đổi thành cái khác.
Việc ban hành chính sách giáo dục cũng phải căn cứ vào tình hình thực tế.
Câu hỏi trước hết phải là: Hiện tại cần gì? Thầy cô cần gì? Học sinh cần gì?
Những chủ nhân tấm bằng chính quy cũng chưa phải "phổng mũi" ta đây hơn người, cũng không ít "chính quy" tệ hơn "tại chức".
Con số mới nhất: 237 nghìn cử nhân thất nghiệp trong quý III năm 2017 – tăng rất nhanh trong 3 năm qua.
Điều đó cho thấy xã hội vẫn chưa "bằng lòng" với chừng ấy tấm bằng cử nhân.
Vấn đề của nền giáo dục đại học không nằm ở cách gọi ngang hàng hay không ngang hàng giữa "chính quy" và "tại chức".
Nghĩ kỹ lại, tất cả những người có bằng cấp đang nợ đội ngũ nhà khoa học "chân đất" - những người nông dân sáng chế một lời tri ân.
Chúng ta đang làm gì với cả triệu tấm bằng giáo dục bậc cao đang có trong xã hội.
Một phát minh sáng chế của vị giáo sư tất nhiên là "bình thường" hơn rất nhiều so với một cải tiến công cụ lao động của một anh nông dân chưa học hết tiểu học.
Chính họ - những nhà khoa học không mặc giày tây không đeo cà vạt đã cho chúng ta biết rằng, bằng gì không quan trọng, miễn xã hội bằng lòng với sản phẩm mình làm ra.
Những người nông dân họ không thuộc bất kỳ một hệ đào tạo nào mà chúng ta đang tốn sức tranh cãi.
Thực tế này vỡ ra thêm một thực trạng đáng quan tâm, đó là: Thái độ của người học.
Cái lò ấp tiến sĩ nào đó ở nước ta từng bị soi rất kỹ, nhưng đáng trách đầu tiên là hàng ngàn nghiên cứu sinh chây lười nên mới sinh ra nhiều công trình quái gở.
Sau đó mới đến sự dễ dãi xuề xòa của "vị giáo sư hướng dẫn một lúc 12 tiến sĩ!".
Những tranh cãi ở thượng tầng dường như không cấp thiết bằng việc làm sao nhanh chóng khai thông thủ tục cấp bằng sáng chế cho nhiều nông dân đang bị "kẹt" không thể xuất khẩu sản phẩm trí tuệ của họ sang Đức, Nhật, Mỹ.
Những trường học ở Hà Lan, Đức, Mỹ đang khuyến khích người học ở nhà học từ xa, người học tự tìm kiếm tài liệu, tự chọn giảng viên và tuyệt nhiên không có lý do gì làm nảy sinh cuộc cãi vã giữa những người mài đũng quần trên ghế nhà trường và những người ăn trưa ngủ sáng ở nhà.
Đó là câu chuyện rất dài.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)